Còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bang, hê hạng thảo. Tên khoa học: cnicus japonicas. Thuộc họ cúc. Đại kế là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô bao gồm thân, cành lá, rễ, hoa tự.
Mô tả cây Ô rô:
Ô rô là loại cây cỏ sống lâu năm, rễ hình thoi dài, có nhiều rễ phụ, thân cao 58- 100 cm hay hơn nữa; thân màu xanh có nhiều rãnh dọc, nhiều lông. Lá ở góc dài 20-40 cm hay hơn, rộng 5-10 cm, hai lần xẻ lông chim, thành thùy; mặt trên nhẵn, mép có gai dài, lá ở thân không cuống, chia thùy. Càng lên trên càng nhỏ và chia đơn giản hơn. Hoa tự hình đầu mọc ở kẽ lá hay đầu cành, đường kính khoảng 3- 5 cm. Lá bắc hẹp nhọn, không đều; lá ngoài ngắn và rất nhọn; lá bắc trong có đầu mềm hơn; tất cả đều ít lông, có gân chính giữa nổi rõ. Cánh hoa màu tím đỏ. Quả thuôn dài 4mm, nhẵn hơi dẹt. Mùa hoa vào các tháng 5-7; mùa quả các tháng 5-9.
Phân bố, thu hái và chế biến cây Ô rô:
Cây mọc hoang ở khắp miền bắc và miền trung nước ta.
Mùa hạ, mùa thu, đang lúc hoa nở thì thu hoạch toàn cây phơi khô mà dùng. Hái vào mùa thu người ta cho là tốt hơn. Nếu dùng rễ, nên hái vào mùa thu rễ sẽ to hơn; đào rễ về cắt bỏ rễ con, rửa sạch, phơi khô.
Công dụng và liều dùng Ô rô:
Đại kế hay ô rô được nhân dân ta làm thuốc từ lâu đời. Vị thuốc này đã được ghi trong Danh y Biệt lục(502-549) và bản thảo cương mục(1596). Theo tính chất ghi trong sách cổ ô rô vị cam( ngọt), khổ (đắng), lương( mát), chủ yếu chữa thổ huyết, máu cam, tiểu tiện ra máu, bị đánh hay bị ngã mà chảy máu băng đới; còn có tác dụng làm mát huyết, tiêu thũng, thông sữa.
Có thể dùng cây và lá hay rễ tươi giã ép lấy nước hoặc phơi khô sắc uống.
Liều dùng hàng ngày: cây tươi 100- 180 g; cây và rễ khô 40-60 g. Có người chỉ dùng 6-12 g cây khô uống phối hợp với các vị khác. Bệnh viện đã áp dụng ô rô sắc uống chữa phù thận có kết quả tốt
Đơn thuốc có Ô rô:
Đại kế 20g, bồ hoàng 8g, táo đen 10 quả, nước 600 ml sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày để chữa kinh nguyệt quá nhiều, băng huyết tử cung.