A- Mô tả cây:
Sài đất còn có tên húng trám vì khi vò cây có mùi trám, và được một số nơi dùng nó ăn sống như ăn rau húng. Người ta còn gọi là cây ngổ núi vì cây giống cây rau ngổ lại mọc hoang trên núi. Tên cú giáp hay cúa nháp vì hoa giống hoa cúc, lá và thân lại nham nháp. Sài đất là một loại cỏ sống dai, mọc lan bò chỗ thân mọc lan tới đâu rễ mọc tới đấy, nơi đất tốt có thể cao tới 0,5 mét, thân màu xanh có lông cứng nhỏ. Lá gần như không cuống, mọc đối, hình bầu dục thon dài, 2 đầu nhọn, dài 15-50 mm, rộng 8- 25mm, có lông nhỏ cứng ở cả hai mặt, mép có 1-3 răng cưa nông, hai bên gân chính có hai gân phụ xuất phát gần như cùng một điểm ở cuống lá, gân chính và phụ đều nổi ở mặt dưới lá. Hoa tự hình đầu, cuống hoa tự dài vượt các nhánh lá; cánh hoa thia lia màu vàng tươi( khác với cây hoa lỗ địa cúc thường dùng nhầm với cây sài đất) quả bế không có lông, đầu thu hẹp lại, tận cùng mang một vòng có răng.
B- Phân bố, thu hái và chế biến:
Cây mọc hoang ở nhiều tỉnh miền bắc nước ta. Thường ưa nơi ẩm mát. Gần đây do nhu cầu nhiều nơi đã trồng sài đất để làm thuốc. trồng sài đất rất dễ lấy mẩu thân dài 20-30 cm vùi 2/3 xuống đất. Sau 1 tháng đã cho thu hoạch. Chăm bón tố 15 ngày lại thu hoạch tiếp. Thu hoạch quanh năm nhưng tốt nhất các tháng hè 4-5-8 lúc cây đang ra hoa. Thường người ta dùng sài đất tươi. Có thể dùng khô nhưng tác dụng có vẻ không bằng tươi.
C- Công dụng và liều dùng:
Nhân dân Hà Bắc vẫn dùng cây sài đất ăn sống như rau với thịt hay cá. Một số nơi dùng sài đất tắm trị rôm sảy, hoặc uống phòng chạy sởi, chữa bang, sốt rét. Từ cuối năm 1961, Bệnh viện Hà Bắc đã sử dụng điều trị có kết quả mọi trường hợp viêm tấy ngoài da, ở khớp xương, ở răng, vú, sưng bắp chuối, sưng khớp nhiễm trùng, lở loét mụn nhọt, chốc đầu, đau mắt…. Hiện nay sử dụng sài đất được phổ biến rộng rãi, có nơi dùng sài đất chữa viêm bang quang cũng có kết quả tốt( Bệnh viện khu Hai Bà Hà nội, 1966).
• Dùng cây tươi: ngày uống 100g; giã cây tươi với ít muối ăn, thêm 100ml nước đun sôi để nguội. Vắt lấy nước chia 1- 2 lần uống trong ngày. Bã có thể dùng đắp lên nơi sưng đau. Có thể giã nát, vắt lấy nước cô đặc thành cao dùng dần, cao này bảo quản không bị mốc hỏng.
• Dùng cây khô: Ngày dùng 50 g thêm ½ lít nước, sắc cô cho đến khi còn 200ml, chia 1-2 lần uống trong ngày. Thời gian điều trị từ 1-2 ngày, nhiều nhất 5-7 ngày. Hiện nay đã chế thành dạng siro ống, thuốc bột, thuốc viên.