A- Mô tả cây:
Cây sống lâu năm có củ to hình cầu dẹt, có khi to hơn đầu người lớn., thịt màu vàng , ăn hơi ngứa. Lá đơn có cuống dài tới 40 cm hay hơn , màu xanh lục nâu có đốm trắng , xẻ ba thành những đoạn dài 50cm , phiến lá khía nhiều và sâu. Bông mo tận cùng bằng một phần bất thụ , hình trụ, màu tím. Mo mầu nâu sẫm. Mùa hoa mùa hạ và thu.
B- Phân bố , thu hái và chế biến:
Cây mọc hoang khắp các nơi ẩm ướt, có khi trồng để lấy củ ăn hoặc nuôi lợn. củ thu hoạch vào các tháng 9-11 , cạo sạch vỏ , đồ chín, hay phơi hoặc sấy khô , khi dùng ngâm cho mềm , thái mỏng rồi ngâm nước phèn chua và gừng, sao cho thơm, hết ngứa. củ muốn ăn được phải chế biến nấu với vôi cho hết ngứa.
C- Công dụng và liều dùng:
Nhân dân thường đào ăn khi đói, nhưng phải nấu kỹ với vôi cho khỏi ngứa , thường chỉ nấu cho lợn ăn . Trong y học , củ tươi giã nát đắp mụn nhọt; dùng trong bị ngứa người ta cho có độc , nhưng khi nấu với vôi thì chất độc giảm hay mất đi. Người nhật dùng tinh bột khoai nưa để ăn. Tinh bột khoai nưa còn có thể dùng nấu rượu. Củ còn dùng chữa rắn cắn.
D- Đơn thuốc có khoai nưa :
Chữa liệt nửa người : củ khoai nưa sống 10 g , ô đầu 1 g , phụ tử 1 g nước 600ml sắc kỹ còn 100ml, chia nhiều lần uống trong ngày . Chú ý thuốc có độc, phải đun kỹ mới hết chất độc, khi dùng phải theo dõi.