Hình ảnh của Rau Diếp Cá:
Giấp cá hay dấp cá, diếp cá, lá giấp, rau giấp (danh pháp khoa học: Houttuynia cordata) là một loài thực vật thuộc họ Saururaceae.
Phân bố
Loài của lục địa châu Á, phân bố từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, các nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, diếp cá mọc hoang ở chỗ ẩm ướt.
Đặc điểm
Là một loại cỏ nhỏ, mọc quanh năm (evergreen), ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt. Lá mọc cách (so le), hình tim, có bẹ, đầu lá hơi nhọn hay nhọn hẳn, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cây thảo cao 15–50 cm; thân màu lục hoặc tím đỏ, mọc đứng cao 40 cm, có lông hoặc ít lông. Cụm hoa nhỏ hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, trong chứa nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt, trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc. Quả nang mở ở đỉnh, hạt hình trái xoan, nhẵn. Mùa hoa tháng 5-8, quả tháng 7-10.
Ngữ học
Theo Cương mục bản thảo của Lý Thời Trân, cây giấp cá có tên Hán tự là ngư tinh thảo nghĩa là cỏ tanh mùi cá. Ngoài ra trong các sách Trung Quốc còn liệt kê một số tên khác như trấp thái, tử trấp, trấp thảo. Từ chữ trấp, người Việt đã đọc trại đi thành giấp như luật biến âm tr thành gi (ví dụ như trời = giời, tro = gio).
Đỗ Phong Thuần trong cuốn Việt Nam dược vật thực dụng năm 1957 sưu tầm những tên sau về giấp cá: Mạnh nương thái (rau của nàng họ Mạnh), bút quản thái (rau cán bút), long tu thái (rau râu rồng), khâm thái (rau cổ áo).
Trong sách Xích cước y sanh thủ nêu những tên đồng nghĩa sau: xú mẫu đơn (mẫu đơn hôi), xú linh đan (liều thuốc hay nhưng thối), lạt tử thoả (cỏ cay), nãi đầu thảo (rau núm vú), xú thảo (cỏ hôi), kê nhĩ căn (rễ cỏ con gà).
Dân thợ mộc trong Nam xưa hay cữ ăn giấp cá vì họ cho rằng nếu không lúc cưa cây, cưa gỗ giấp vô mắt cá bị thương.
Tên tiếng Anh của nó là heartleaf (lá hình tim), fish mint, fish herb, hay lizardtail (đuôi thằn lằn).
Thành phần hoá học
Thu hoạch
Thu hoạch quanh năm. Ở Trung Quốc, người ta nhổ cây giấp cá vào mùa hè và thu hoạch rửa sạch rồi phơi khô.
Chữa bệnh
Thường dùng tươi. Có thể phơi hay sấy khô để dùng dần hoặc sắc nước uống.
Theo đông y, giấp cá vị cay, chua, mùi tanh, tính mát (hơi lạnh, theo Hu), hơi độc, tán khí, tán ứ (Kariyone & Kimure), cay vào phế kinh.
Những người nguyên khí hư, có chứng đau chân không nên dùng. Những người không phải thấp nhiệt và sang độc cũng không nên dùng.
Có tác dụng thanh nhiệt (tán nhiệt), giải độc, tiêu ung thũng, dùng chữa phế ung, ngoài dùng chữa ung thũng, vết lở loét, ức chế thần kinh. Cordalin có tác dụng kích thích da, gây phồng. Đắp bó làm xương gãy mau lành (Cheo). Nấu giấp cá với thịt heo uống vào mùa xuân để xổ lãi (Hu).
Quercitrin, isoquercitrin có tác dụng lợi tiểu mạnh, đồng thời có tác dụng làm vững bền mao mạch.
Rau giấp cá 20-50g, rau má tươi 50g, rau mã đề tươi 40-50g, rửa sạch, vò nát trong nước, sau gạn lấy nước trong uống, ngày 1-3 lần. Thực hiện trong 7-10 ngày
Tinh dầu dấp cá có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn (sát trùng) mạnh.
Dùng khi bị xuất huyết do trĩ (bệnh): rau diếp cá 2 kg, bạch cập 1 kg, tất cả sấy khô tán bột, ngày uống 6-12 g, chia 3 lần.
Rau giấp cá, lá rau ngót, lá cỏ mực mỗi thứ 100g, sắc lấy nước đặc uống trong ngày.
Nghiền nhỏ lá đắp vào các chỗ bầm dập và trên mí mắt trị đỏ mắt (Faucaud). 35g diếp cá, rửa sạch, tráng qua nước đun sôi để nguội, để ráo nước, rồi giã nát, ép vào hai miếng gạc sạch, đắp lên mắt sưng đau khi đi ngủ. Thực hiện trong 3 - 5 ngày.
Lá diếp cá khô 20g, táo đỏ 10g, nước 600ml sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.
Dùng rau diếp cá, rau dền đỏ, lá đậu săng, cam thảo đất mỗi thứ 50 g, sắc 3 bát nước còn lại 1 bát, chia làm 3 phần, uống trong ngày.
Rau diếp cá 6-12 g, sắc lấy nước xông và rửa vùng bị trĩ. Kết hợp ăn sống lá giấp cá trong bữa ăn. Đặc biệt khi kết hợp với Mg (có tác dụng nhuận tràng) sẽ giúp hạn chế táo bón là căn nguyên của căn bệnh trĩ. Hiện có một số sản phẩm chữa trị bệnh trĩ có chứa dấp cá.
Sao khô 10g diếp cá, hãm với nước sôi khoảng 10 phút, uống thay trà hàng ngày. Uống trong 10 ngày.
Lấy rau diếp cá 50 g, sắc lấy nước, ngày uống 2-3 lần trước bữa ăn, dùng 4 – 6 ngày sẽ khỏi.
20g diếp cá, 15g rau dệu, 10g cam thảo đất. Sắc uống ngày một thang, uống trong 1 tháng. Hoặc 100g diếp cá, sao vàng, hãm với 1 lít nước sôi trong 20 phút, uống thay nước hàng ngày, uống trong 2 tháng.
Dùng bên ngoài trị ung nhọt, sưng, vết thương da lở (Roi), lá còn trị mề đay (Pételot). Rau diếp cá 6-12 g, vò nát, đắp vào mụn nhọt rồi băng lại. Ngày thực hiện 2 lần. Làm trong 3 ngày, mụn nhọt sẽ đỡ sưng đau nhanh chóng. Thêm nước sắc uống hàng ngày 1 thang. Uống trong vài ngày.
Diếp cá khô 20-25g, táo đỏ 10g (hoặc 10 quả), sắc với 600ml nước còn lại 200ml (sắc với 3 bát nước còn 1 bát), thuốc chia 3 phần uống hết trong ngày. Uống trong 3 - 5 ngày.
Diếp cá 40g, ngải cứu 30g, giã nhỏ lọc bằng nước sôi để nguội lấy một bát nước thuốc, cho bệnh nhân uống làm 2 lần trong ngày, uống liền 5 ngày, uống trước kỳ kinh 10 ngày.
Diếp cá 20g, bồ kết 10g, tỏi 1 củ. Cho thuốc vào nồi cùng với 5 bát nước đun sôi thật kỹ. Cho bệnh nhân xông hơi nóng vào chỗ đau, sau đó dùng nước ngâm, rửa chỗ đau. Ngày làm 1 lần, cần làm trong 7 ngày liền.
Hoa giấp cá dùng để trục hài nhi chết trong bụng (Loureirs, Crevast và Pételot).
Nông nghiệp
Lá giấp cá sắc nước rẩy để cây bông vải, lúa kiều mạch khỏi bị dòn úa (Trung Quốc thổ nông dược chí).
Ẩm thực
Giấp cá từ lâu đã được trồng lấy lá làm rau ăn. Tại tây nam Trung Quốc, chẳng hạn các tỉnh Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên, các rễ phụ cũng được dùng như là rau. Ở Việt Nam, giấp cá được dùng nhiều ở các tỉnh phía nam, thường dùng ăn lá sống kèm với nhiều món như thịt nướng, chả giò bún, gỏi cuốn...
Nhật đã có các công nghệ chế biến rau giấp cá thành các loại thực phẩm như trà rượu.